(Tin Môi Trường) – Trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam các loại hóa chất bảo vệ thực vật đã được sử dụng từ nhiều năm trước đây. Thời kỳ đó do tình hình phát sinh, phát triển của sâu hại, dịch bệch diễn biến chưa phức tạp nên số lượng và chủng loại hóa chất bảo vệ thực vật chưa nhiều.
Ô nhiễm môi trường ở Thanh Hóa
Ngày đó, do thiếu thông tin và do chủng loại hóa chất còn nghèo nàn nên người nông dân đã sử dụng nhiều loại hóa chất có độc tính cao, tồn lưu lâu trong môi trường. Những năm gần đây, do thâm canh tăng vụ, tăng diện tích, do thay đổi cơ cấu giống cây trồng nên tình hình sâu bệnh diễn biến phức tạp hơn.
Bên cạnh đó, tình trạng hóa chất bảo vệ thực vật nhập lậu vào nước ta vẫn xảy ra và trong thời gian gần đây có xu hướng gia tăng. Các loại hóa chất bảo vệ thực vật này được đóng gói bằng tiếng nước ngoài, không có nhãn mác, không biết thành phần hoạt chất, không có hướng dẫn sử dụng. Điều đáng lo ngại là hầu hết các loại hóa chất tồn đọng này được lưu giữ trong các kho chứa tồi tàn hoặc bị chôn vùi dưới đất không đúng kỹ thuật nên nguy cơ rò rỉ vào môi trường là rất đáng báo động. Các kho hóa chất hầu hết được xây dựng từ những năm 1980 trở về trước, khi xây dựng chưa quan tâm đến việc xử lý, kết cấu, nền móng nên việc ô nhiễm đất tại các kho thuốc này là điều không thể tránh khỏi.
Hơn nữa, từ trước đến nay các kho chứa này không được quan tâm tu sửa, gia cố hàng năm, nên đều đã và đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, nền và tường kho phần lớn bị rạn nứt, mái lợp đã bị hỏng, dột nát, nhiều kho không có cửa sổ, cửa ra vào được buộc gá tạm bợ; hệ thống thoát nước hầu như không có nên khi mưa lớn tạo thành dòng mặt kéo theo lượng thuốc tồn đọng gây ô nhiễm môi trường nước xung quanh. Đây là những yếu tố tiềm ẩn gây hại đối với nông nghiệp và môi trường.
Ngoài ra, việc không tuân thủ thời gian cách ly sau khi phun thuốc, tình trạng vứt bao bì hóa chất bảo vệ thực vật bừa bãi sau sử dụng khá phổ biến. Thói quen rửa bình bơm và dụng cụ pha chế hóa chất không đúng nơi quy định gây ô nhiễm nguồn nước, ngộ độc cho động vật thủy sinh cũng cần được cảnh báo và khắc phục ngay. Cùng với hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu, các loại thuốc và bao bì, đồ đựng hóa chất bảo vệ thực vật đang là nguy cơ đe dọa sức khỏe cộng đồng và gây ô nhiễm môi trường nếu không được áp dụng các biện pháp giải quyết khẩn cấp.
Hóa chất bảo vệ thực vật làm thoái hóa đất, ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, ô nhiễm không khí và gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái. Hóa chất gây ô nhiễm môi trường thông qua nhiều con đường khác nhau như nước thải từ kho chứa thuốc khi có sự cố đổ vỡ hóa chất, cháy nổ, sét đánh xảy ra, nước mưa chảy tràn qua các kho chứa hóa chất bảo vệ thực vật đã bị xuống cấp, lượng thuốc còn dư đọng lại trong chai bị quăng xuống ao, hồ, sông hay lượng thuốc dư thừa trong quá trình sử dụng quá liều lượng ngấm vào đất cũng như mạch nước ngầm…
Không chỉ gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu với bốn tính chất độc hại, khó phân hủy, khả năng di chuyển xa, tích lũy sinh học còn gây ra những ảnh hưởng có hại đối với khả năng sinh sản, sự phát triển, hệ thần kinh, tuyến nội tiết và hệ miễn dịch đều có liên quan tới hóa chất. Con người bị nhiễm chủ yếu thông qua các thực phẩm ô nhiễm, các đường khác ít phổ biến hơn là uống nước ô nhiễm và tiếp xúc trực tiếp với hoá chất. Đối với con người và động vật có vú, các hóa chất bảo vệ thực vật có thể được lây truyền thông qua nhau thai và sữa mẹ tới động vật sơ sinh.
Trước thực trạng ô nhiễm môi trường do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu trên phạm vi cả nước, các giải pháp về chính sách đã được đưa ra thảo luận và ban hành. Ngày 22/7/2002, Chủ tịch nước đã ký phê chuẩn tham gia Công ước Stockholm về loại bỏ các chất gây ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ, trong đó chủ yếu là các loại hóa chất bảo vệ thực vật. Năm 2007, Quốc hội đã ban hành Luật Hóa chất, trong đó Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố quy định việc xử lý, thải bỏ hóa chất tồn dư, chất thải và dụng cụ chứa hóa chất theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và xây dựng kế hoạch xử lý các khu vực, kho (gọi tắt là điểm) hóa chất bảo vệ thực vật gây ô nhiễm môi trường, các điểm tồn dư hóa chất trong thời kỳ chiến tranh trình Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Theo đó, ngày 21/10/2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 1946 về việc phê duyệt Kế hoạch xử lý, phòng ngừa ô nhiễm môi trường do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu trên phạm vi cả nước. Sau 3 năm triển khai, cơ chế chính sách từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Bên cạnh những giải pháp về chính sách kể trên, hiện nay có nhiều giải pháp về kỹ thuật đang được áp dụng để tiêu hủy hóa chất bảo vệ thực vật.
Hiện nay ở nước ta có 2 đơn vị được cấp phép áp dụng công nghệ đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng để xử lý hóa chất bảo vệ thực vật POP là Công ty xi măng Holcim và Công ty xi măng Thành Công. Đối với các lò đốt chất thải chuyên dụng, có khá nhiều các lò đốt chất thải thông thường và chất thải nguy hại được áp dụng và cấp phép, nhưng chưa có cơ sở nào được cấp phép để đốt hóa chất bảo vệ thực vật POP. Nhóm giải pháp không đốt hiện có nhiều phương pháp đang được áp dụng tại Việt Nam bao gồm phương pháp cô lập triệt để, công nghệ chôn lấp, công nghệ khử bằng natri, phân hủy bằng tia cực tím hay công nghệ Fenton, công nghệ vi sinh…
Cùng với những giải pháp về chính sách, kỹ thuật, các giải pháp về truyền thông cũng cần được đẩy mạnh như việc tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân trong việc tự bảo vệ và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hiện hành một cách có ý thức. Cho đến nay, kết quả triển khai các nhiệm vụ xử lý, phòng ngừa ô nhiễm môi trường do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ. Nhận thức về vấn đề ô nhiễm môi trường do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu của các cấp chính quyền và người dân đã được tăng lên rõ rệt.
Sau khi ban hành và triển khai Kế hoạch, các Bộ và địa phương tích cực triển khai các chương trình điều tra, khảo sát và lập kế hoạch xử lý, phòng ngừa ô nhiễm môi trường do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu. Đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường thông qua Dự án POP- PEST đã xử lý 9 khu vực ô nhiễm tại Thái Nguyên, Nghệ An và Hà Tĩnh; hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Trung ương cho 49 dự án xử lý, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường các khu vực ô nhiễm do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu cho 12 tỉnh, thành phố với tổng kinh phí hỗ trợ là 242.045.124.931 đồng.
Nguồn lực cho công tác khắc phục ô nhiễm các khu vực tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật đã tăng lên rõ rệt, phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi tham gia Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy. Ngoài ra, các Bộ, ngành và địa phương đều thúc đẩy hợp tác quốc tế và huy động các nguồn lực tài chính khác để góp phần triển khai thành công kế hoạch đề ra. Công nghệ xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường được thúc đẩy và chuyển giao. Hiện đã có khá nhiều các nghiên cứu, áp dụng, thí điểm các công nghệ mới như công nghệ Fenton, công nghệ sắt TAML, công nghệ nghiền bi, công nghệ giải hấp nhiệt, công nghệ đốt, đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng… Việc phát triển thị trường công nghệ sẽ góp phần giảm thiểu chi phí, tăng hiệu quả xử lý ô nhiễm môi trường do hóa chất tồn lưu nói riêng và hoạt động bảo vệ môi trường nói chung.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những tồn tại trong quá trình xử lý hóa chất bảo vệ môi trường mà chúng ta cần phải khắc phục và có hướng giải quyết trong thời gian tới. Nếu không quan tâm kiểm soát việc sản xuất, nhập khẩu, sử dụng hoá chất và không kiểm soát chất lượng phun dải hoá chất ngay từ bây giờ, tương lai sẽ còn phát sinh nhiều điểm ô nhiễm do hoá chất bảo vệ thực vật và số tiền phải chi phí cho xử lý ô nhiễm, khám chữa bệnh sẽ tăng, đặc biệt là việc thoái hoá đất, chất lượng đất sẽ bị suy giảm và các thế hệ tương lai sẽ thiếu nghiêm trọng đất canh tác.